Phạm trù năng lực thường được hiểu theo những cách khác nhau và mỗi cách hiểu có những thuật ngữ tương ứng:
Năng lực (Capacity/Ability) hiểu theo nghĩa
chung nhất là khả năng (hoặc
tiềm năng) mà
cá nhân thể
hiện khi tham gia một
hoạt động nào đó ở một thời điểm nhất định. Chẳng hạn, khả năng giải
toán, khả năng nói
tiếng Anh, ... thường được đánh giá bằng các trắc nghiệm trí tuệ (ability tests);
Năng lực (Compentence) thường gọi là năng lực
hành động: là khả năng thực
hiện hiệu quả một nhiệm vụ/một hành động cụ thể, liên quan đến
một lĩnh vực nhất định dựa trên cơ sở
hiểu biết, kỹ năng, kỹ
xảo và sự sẵn sàng hành động.
- Năng lực hành động (Compentence): là “khả năng vận
dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, thái
độ và hứng thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả trong các
tình huống đa dạng của cuộc sống” (Québec- Ministere de l’Education, 2004);
Người
học có năng lực
hành động về một loại/lĩnh vực hoạt động nào đó cần hội đủ các dấu hiệu cơ bản sau:
Có
kiến thức hay hiểu biết hệ thống/chuyên sâu về
loại/lĩnh vực hoạt động đó.
Biết
cách tiến hành hoạt động đó hiệu quả và đạt kết quả phù hợp với mục đích (bao gồm
xác định mục tiêu cụ
thể, cách thức/phương pháp
thực hiện hành động/ lựa chọn được các giải pháp phù hợp,... và cả các điều kiện, phương tiện
để đạt mục đích).
Hành
động có kết quả, ứng phó linh hoạt,
hiệu quả trong những
điều kiện mới,
không quen thuộc.
Từ
các cách hiểu trên, có
nhiều định nghĩa khác nhau về
Năng lực (NL). Ví
dụ:
- Năng lực là khả năng cá
nhân đáp ứng các yêu cầu phức hợp và thực hiện thành công nhiệm
vụ trong một
bối cảnh cụ thể” (OECD, 2002).
- Năng lực được xây dựng trên cơ sở
tri thức, thiết lập qua giá trị, cấu trúc như là các khả năng, hình
thành qua trải nghiệm/củng cố qua kinh nghiệm, hiện thực hóa qua ý chí
(John Erpenbeck 1998).
- Năng lực là các khả năng và
kỹ năng nhận
thức vốn có ở cá nhân hay có
thể học được… để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc
sống. Năng lực
cũng hàm chứa trong nó
tính sẵn sàng hành động, động cơ, ý chí
và trách nhiệm xã hội để có thể sử dụng một cách thành công và
có trách nhiệm các giải pháp… trong những
tình huống thay đổi
(Weinert, 2001).
- Năng lực của người học là khả năng làm
chủ những hệ thống kiến thức, kỹ năng, thái
độ... phù hợp với lứa tuổi và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lý vào thực hiện thành công nhiệm
vụ học tập, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra cho chính
các em trong cuộc
sống (Nguyễn Công Khanh, 2013).
- Năng lực của HS là một cấu trúc động (trừu tượng), có tính mở, đa thành tố, đa tầng bậc, hàm chứa trong nó
không chỉ là kiến thức, kỹ năng,... mà
cả niềm tin, giá
trị, trách nhiệm xã hội... thể hiện ở tính sẵn sàng hành động của các em trong môi trường học tập phổ thông và
những điều kiện thực tế đang thay đổi
của xã h
2. Cấu trúc của năng lực
- Khái
niệm
năng lực
hành
động
(competence) và khái niệm kỹ năng (skills) không có sự tương đồng. Kỹ năng chỉ được định nghĩa như là khả năng thực hiện dễ dàng, chính
xác một hành động có tính phức hợp và khả năng thích ứng trong các điều kiện đang thay đổi. Trong khi năng lực
hành
động
được
định
nghĩa
như là
một
khái
niệm
định
hướng
theo
chức năng, một hệ thống phức hợp hơn, toàn diện hơn, có sự kết hợp của nhiều thành tố như các khả năng nhận thức, kĩ năng, thái độ và chứa cả các thành phần phi nhận thức như động cơ, xúc cảm, giá trị, đạo đức... trong một
bối
cảnh
có
ý nghĩa. Cấu
trúc
của năng lực được trình bày trong sơ đồ 11: vòng tròn nhỏ ở tâm là năng lực (định hướng
theo chức
năng); vòng
tròn
giữa
bao quanh vòng
trong nhỏ
là
các
thành
tố
của
năng lực:
kiến thức, các khả năng nhận thức, các khả năng thực hành/năng khiếu, thái độ, xúc cảm, giá trị, đạo đức, động cơ; vòng tròn ngoài là bối cảnh (điều kiện/hoàn cảnh có ý nghĩa).
Sơ đồ: Định hướng chức năng và cấu trúc đa thành tố của năng lực.
Như vậy năng lực
không phải là cấu trúc bất biến, mà là một cấu trúc động (trừu tượng), có tính mở, đa thành tố, đa tầng bậc, hàm chứa trong nó
không chỉ là kiến thức, kỹ năng,... mà
cả niềm tin, giá
trị, trách nhiệm xã hội... thể hiện ở tính sẵn sàng hành động trong những
điều kiện thực tế, hoàn cảnh thay đổi.
3. Năng lực của học sinh
- Năng lực của học sinh là
khả năng
làm chủ những hệ thống kiến thức, kỹ
năng, thái độ... phù hợp với lứa tuổi và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lý vào thực hiện thành công
nhiệm vụ học tập, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra
cho chính các em
trong cuộc sống.
- Từ
định nghĩa này, có 3 dấu hiệu quan trọng
cần được giáo viên, phụ
huynh lưu ý:
+ Năng lực của học sinh phổ
thông không chỉ là khả năng tái
hiện tri thức, thông hiểu
tri thức, kỹ năng học
được..., mà quan trọng
là khả năng hành
động, ứng dụng/vận dụng tri thức, kỹ năng học
được để giải quyết những vấn đề của cuộc sống đang đặt
ra với chính các em.
+ Năng lực của học sinh không chỉ
là vốn kiến thức, kỹ năng, thái
độ sống phù hợp với lứa tuổi mà là sự kết hợp hài hòa của cả 3 yếu tố này thể hiện ở khả năng hành
động (thực hiện) hiệu quả, muốn hành động và sẵn sàng hành động đạt mục đích đề ra (gồm động cơ, ý chí,
tự tin, trách
nhiệm xã hội...).
+ Năng lực của học sinh được
hình thành, phát triển trong quá
trình thực hiện các nhiệm vụ học tập ở trong lớp
học và ngoài lớp học. Nhà trường được coi là môi trường giáo dục chính thống giúp học sinh hình
thành những năng lực
chung, năng lực chuyên biệt
phù hợp với lứa tuổi, song đó
không phải là nơi duy nhất.
Những môi trường khác như: gia đình,
cộng đồng,... cùng góp phần bổ sung và
hoàn thiện các năng lực
của các em.
4. Hệ thống năng lực chung
Năng lực chung là
năng lực cơ bản, thiết yếu để con người có thể sống và làm việc bình thường trong xã
hội.
Năng lực này được hình thành và phát triển do nhiều môn học, liên quan đến
nhiều môn học. Vì thế có nước gọi là năng lực
xuyên chương trình. Mỗi năng lực
chung cần: a) Góp phần tạo nên kết quả có giá trị cho xã hội và cộng đồng; b) Giúp cho các cá nhân đáp
ứng được những đòi hỏi của một bối cảnh rộng lớn và phức tạp; c) Chúng có thể không quan trọng
với các chuyên gia, nhưng rất
quan trọng với tất cả mọi người.
Chương trình
giáo dục phổ thông mới
của Việt Nam sau 2015, sẽ
được cấu trúc theo định
hướng phát triển năng lực.
Theo Đỗ Ngọc Thống và nhóm tác giả (2014), dự
thảo
chương trình giáo dục phổ thông mới đã
tạm xác định các năng lực
chung cốt lõi của học sinh khi kết
thúc chương trình
giáo dục phổ thông là:
- Năng
lực học tập (tự học, học suốt đời)
- Năng
lực giải quyết vấn đề
- Năng
lực tư duy sáng
tạo
- Năng
lực tự quản lý, phát triển bản thân
- Năng
lực giao tiếp
- Năng
lực hợp tác
- Năng
lực sử dụng công nghệ
thông tin và truyền thông
- Năng
lực sử dụng ngôn ngữ
- Năng
lực tính toán.
Ngoài năng lực chung, với mỗi môn đặc thù sẽ có các năng lực đặc thù bộ môn.
Ngoài năng lực chung, với mỗi môn đặc thù sẽ có các năng lực đặc thù bộ môn.
Như vậy Năng lực bao gồm : KIẾN THỨC, KỸ NĂNG, THÁI ĐỘ và được đặt trong BỐI CẢNH CỤ THỂ.
Nguồn: Dạy học Phát Triển Năng lực- Cô Trần Khánh Ngọc.
0 comments: